Đây là phiên bản lỗi thời đã được xuất bản vào 04-03-2023. Đọc phiên bản mới nhất ở đây .

Phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim cấp được sử dụng liệu pháp tế bào gốc tuỷ xương tự thân

Các tác giả

  • Phan Tuấn Đạt Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai
  • Phạm Mạnh Hùng Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai
  • Nguyễn Lân Việt Viện Tim mạch Việt Nam - Bệnh viện Bạch Mai

DOI:

https://doi.org/10.58354/jvc.94+95.2021.170

Tóm tắt

Tổng quan: Bệnh mạch vành đang là nguyên nhân gây tử vong và tàn phế hàng đầu trên toàn thế giới. Liệu pháp điều trị tế bào gốc là biện pháp điều trị đầy hứa hẹn do giải quyết được vấn đề mấu chốt trong thay thế và sửa chữa tế bào cơ tim bị tổn thương sau NMCT.

Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim cấp được sử dụng liệu pháp tế bào gốc tuỷ xương tự thân.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Từ 01/2011 đến 09/2019, tại Viện Tim mạch Việt Nam, có 134 BN bị suy tim sau NMCT, được tái tưới máu ĐMV thành công bằng can thiệp qua da trong vòng 5 ngày đầu, chức năng tâm thu thất trái giảm (EF Simpson trên siêu âm tim ≤ 50%) được tuyển chọn vào nghiên cứu và chia làm 2 nhóm: nhóm được cấy ghép tế bào gốc tự thân tuỷ xương (n=67) và nhóm chứng (n=67). Các biến cố xảy ra trong thời gian nằm viện và trong suốt thời gian 12 tháng sau đó được ghi nhận, bao gồm: biến cố tử vong (do tim mạch, không do tim mạch và tử vong không xác định); biến cố liên quan đến tái NMCT, tái can thiệp ĐMV và biến cố tái nhập viện do suy tim. Các yếu tố liên quan đến các biến cố tim mạch trong 12 tháng theo dõi. Nghiên cứu tiến cứu, có nhóm đối chứng.

Kết quả: Trong 12 tháng theo dõi và ghi nhận các biến cố xảy ra, có 16 BN tử vong (26,23%): nhóm tế bào gốc 6 BN và nhóm chứng 10 BN. Trong đó, chỉ có biến cố tái nhập viện do suy tim và biến cố gộp là có sự khác biệt, gặp ít hơn ở nhóm tế bào gốc so với nhóm chứng (cụ thể 6,56% so với 19,67%, p=0,03 và 13,11% so với 27,87%, p=0,02).

Qua 12 tháng theo dõi, ở nhóm được điều trị tế bào gốc tuỷ xương tự thân, những bệnh nhân dưới 50 và phân suất tống máu thất trái ban đầu dưới 40% có sự cải thiện phân suất tống máu thất trái rõ rệt hơn, lần lượt là OR: 10,03 (1,89-53,19), p=0,01 và 9,78 (1,48-64,72), p=0,02. Bệnh nhân mắc đái tháo đường và hút thuốc lá có nguy cơ tử vong cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê với OR lần lượt là: 28,13 (1,71 – 462,17), p=0,02 và 28,16 (1,48 –535,63), p=0,03.

Kết luận: Qua 12 tháng theo dõi, ở nhóm được điều trị tế bào gốc tuỷ xương tự thân, những bệnh nhân dưới 50 và phân suất tống máu thất trái ban đầu dưới 40% có sự cải thiện phân suất tống máu thất trái rõ rệt hơn. Bệnh nhân mắc đái tháo đường và hút thuốc lá có nguy cơ tử vong cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê.

Từ khóa: Nhồi máu cơ tim, suy tim, tế bào gốc tủy xương, biến cố.

Đã Xuất bản

04-03-2023

Các phiên bản

Cách trích dẫn

Phan Tuấn Đạt, Phạm Mạnh Hùng, & Nguyễn Lân Việt. (2023). Phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim cấp được sử dụng liệu pháp tế bào gốc tuỷ xương tự thân. Tạp Chí Tim mạch học Việt Nam, (94+95), 178–188. https://doi.org/10.58354/jvc.94+95.2021.170

Số

Chuyên mục

NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG

Các bài báo được đọc nhiều nhất của cùng tác giả

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 > >>